Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt bên nào. Các thỏa thuận của các bên không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Do vậy, khi có tranh chấp dân sự việc hòa giải của các bên được pháp luật khuyến khích. Điều 10 bộ luật TTDS năm 2004 cũng quy định, tòa án có trách nhiệm hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án dân sự. Trong quá trình hòa giải tòa án giữ vai trò đặc biệt quan trọng, với tư cách là cơ quan xét xử của nhà nước, tòa án phải chủ động trong việc hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Vai trò chủ động này thể hiện ở chỗ sau khi thụ lý vụ án, tòa án chủ động triệu tập các đương sự đến để hòa giải, tòa án giữ vai trò trung gian không có quyền thương lượng điều đình mà để đương sự tự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án.
- Việc hoà giải thành công vụ án dân sự không cần mở phiên tòa xét xử vụ án, giảm bớt một giai đoạn tố tụng kéo dài và cực kỳ phức tạp, tiết kiệm được thời gian, tiền của cho đương sự Nhà nước và cho nhân dân. Việc hòa giải dân sự có thể được tiến hành qua các giai đoạn sau:
1. Trường hợp thứ nhất: Hòa giải và chuẩn bị xét xử (hòa giải lần 1)
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; Trừ trường hợp vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được.
- Những vụ án dân sự không được hòa giải, gồm có: Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội (Điều 181 Bộ Luật Tố tụng dân sự).
- Những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được, gồm có: Bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể hòa giải được vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 182 Bộ Luật Tố tụng dân sự).
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì tòa án lập Biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gởi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.
Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập Biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được chánh án tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do sự nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Trường hợp thứ hai: Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm (hòa giải lần 2)
Tại phiên tòa sơ thẩm, sau khi chủ tọa phiên tòa thực hiện các thủ tục hỏi tại phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Trong trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án và sự thỏa thuận của họ là tự nguyện; không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự về việc giải quyết vụ án có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm nêu trên, thì hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo qui định của pháp luật.
3. Trường hợp thứ ba: Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm (hòa giải lần 3)
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.
Sau khi chủ tọa phiên tòa thực hiện các thủ tục hỏi đương sự, tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội thì hội đồng xét xử phúc thẩm ra Bản án phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc chia án phí sơ thẩm; nếu không thỏa thuận được với nhau thì tòa án quyết định theo qui định của pháp luật.
Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY TNHH TƯ VẤN ĐẦU TƯ TRÍ TÂM
Địa chỉ: Số 65/54 Lê Quang Đạo, Phường Phú Đô, Quận Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội
Hotline: 0963 116 488
Email: luattritam1@gmail.com